Theo đó, hàng năm, các cơ sở sử dụng năng lượng trọng điểm, các đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước phải xây dựng kế hoạch năm, báo cáo thực hiện kế hoạch năm về sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả của đơn vị mình với sở quản lý tương ứng và phải hoàn thành chậm nhất vào ngày 15 tháng 1 hằng năm.
Có hai cách để cơ sở, cơ quan, đơn vị thực hiện việc đăng ký kế hoạch, báo cáo:
Thứ nhất, qua mạng Internet (Trang thông tin điện tử của hệ thống cơ sở dữ liệu năng lượng quốc gia).
Thứ hai, thực hiện bằng văn bản có chữ ký của người chịu trách nhiệm về dữ liệu trong văn bản, chữ ký của người đứng đầu đóng dấu của cơ sở, cơ quan, đơn vị và gửi đến sở quản lý tương ứng tại địa phương.
Thông tư cũng quy định, các cơ sở sử dụng năng lượng trọng điểm, các đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước phải thực hiện khảo sát sơ bộ nhằm phát hiện và đề xuất các cơ hội tiết kiệm năng lượng không cần đầu tư, hoặc chỉ cần đầu tư nhỏ để cơ sở sử dụng năng lượng ưu tiên thực hiện.
Kết quả kiểm toán năng lượng là báo cáo kiểm toán năng lượng trình lãnh đạo của cơ sở được kiểm toán năng lượng, bao gồm đầy đủ các số liệu khảo sát đo lường, tính toán cụ thể, phản ánh hiện trạng công nghệ, hiện trạng sử dụng năng lượng của cơ sở và các giải pháp tiết kiệm năng lượng được đề xuất theo thứ tự ưu tiên, với đầy đủ các phân tích về chi phí, lợi ích đối với từng đề xuất để cơ sở lựa chọn triển khai áp dụng.
Trong thời hạn 30 ngày, sau khi thực hiện kiểm toán năng lượng cơ sở có trách nhiệm gửi báo cáo kiểm toán năng lượng đến Sở Công Thương.
Đối với những cơ sở không thuộc danh mục cơ sở sử dụng năng lượng trọng điểm, khuyến khích lập báo cáo hàng năm và có kế hoạch sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả.
Khuyến khích các cơ sở sản xuất công nghiệp, sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp, xây dựng, cơ sở vận tải không thuộc danh sách cơ sở sử dụng năng lượng trọng điểm, định kỳ thực hiện kiểm toán năng lượng theo chu kỳ từ 3 - 5 năm/1 lần, nhằm xác định các cơ hội tiết kiệm năng lượng, lựa chọn áp dụng các biện pháp sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả.